QUY TẮC TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
CỦA TRUNG TÂM TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI TÀI CHÍNH (FCCA)
(Có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2018)
- Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm Trọng tài Thương mại Tài chính (FCCA) (Sau đây được gọi là “Quy tắc”) được áp dụng để giải quyết các vụ tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài Thương mại Tài chính bởi Hội đồng Trọng tài hoặc Trọng tài viên duy nhất. Bất kỳ thỏa thuận nào của các bên đang tranh chấp nếu không vi phạm quy định pháp luật Việt Nam về Trọng tài Thương mại thì sẽ được xem là một phần không thể tách rời của Quy tắc này. Đối với các vấn đề không được quy định trong Quy tắc này thì sẽ được áp dụng pháp luật Việt Nam về Trọng tài Thương mại.
- Trong Quy tắc này:
(a) “Trung tâm” hay “FCCA”là “Trung tâm Trọng tài Thương mại Tài chính”;
(b) “Hội đồng Trọng tài” có nghĩa là Hội đồng Trọng tài gồm các Trọng tài viên hoặc một Trọng tài viên duy nhất được thành lập bởi FCCA nhằm để giải quyết tranh chấp theo Quy tắc của FCCA;
(c) Nguyên đơn là bên nộp Đơn khởi kiện; Bị đơn là bên nộp Bản Tự bảo vệ đến Hội đồng Trọng tài;
- Bất kỳ thông báo, tài liệu do bất kỳ bên nào gửi đến Trung tâm hoặc Hội đồng Trọng tài phải được lập thành năm (05) bản để Trung tâm gửi đến thành viên của Hội đồng Trọng tài (ba bản), cho bên kia một bản và Trung tâm lưu một bản. Trừ khi có thoả thuận khác bằng văn bản, các thông báo, tài liệu có thể gửi bằng thư điện tử và được coi là đã nhận khi thông báo, tài liệu đã được gửi đến máy chủ của bên nhận. Nếu thông báo, tài liệu dưới dạng văn bản được Trung tâm gửi đến các bên thì được coi là đã nhận vào ngày thư bảo đảm, thư điện tử hoặc chuyển phát nhanh được chuyển đến bên nhận theo địa chỉ được cung cấp trong hợp đồng đang xảy ra tranh chấp, trừ trường hợp có thông báo khác của Bên nhận. Bất kỳ thông báo, tài liệu nào được các bên hoặc đại diện theo ủy quyền của các bên gửi đi đều phải được ký tên đầy đủ;
- Theo thỏa thuận giữa các bên, tranh chấp có thể được giải quyết mà không cần mở Phiên họp giải quyết tranh chấp. Nếu không thì Phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ được tổ chức kể từ khi Hội đồng Trọng tài gửi thông báo bằng văn bản trước 15 ngày;
- Nguyên đơn sẽ bắt đầu thủ tục tố tụng trọng tài bằng cách gửi Đơn khởi kiện, có ghi rõ ngày khởi kiện, tên và địa chỉ của Bị đơn, Thỏa thuận trọng tài, tranh chấp, khoản tiền yêu cầu bồi thường và chỉ định Trọng tài viên (hoặc ủy quyền cho Trung tâm chỉ định Trọng tài viên). Trọng tài viên không nhất thiết phải trong danh sách trọng tài viên đề cử của Trung tâm. Trong trường hợp có nhiều bên liên quan thì các bên bị kiện sẽ đều được coi là Bị đơn;
- Trong vòng ba ngày kể từ khi nhận được Đơn khởi kiện, Trung tâm sẽ thông báo để Nguyên đơn đóng tiền tạm ứng phí trọng tài và thông báo cho Bị đơn là bên phải nộp Bản tự bảo vệ đến Hội đồng Trọng tài để phản hồi từng vấn đề được nêu trong Đơn khởi kiện và Bị đơn phải chỉ định Trọng tài viên (hoặc ủy quyền cho Trung tâm chỉ định) trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được Đơn khởi kiện. Nếu Bị đơn nộp bất cứ Yêu cầu phản tố nào, Đơn yêu cầu phản tố phải được gửi cùng lúc với Bản tự bảo vệ và các tài liệu có liên quan trong cùng một hồ sơ. Nội dung của Đơn yêu cầu phản tố phải tương tự Đơn khởi kiện, trừ trường hợp Nguyên đơn sẽ trở thành Bị đơn và ngược lại. Trong trường hợp có nhiều Bị đơn, thì các Bị đơn phải cùng nhau chỉ định một trọng tài viên, mặc dù có thể gửi nhiều bản tự bảo vệ hay đơn kiện lại khác nhau. Bản tự bảo vệ và đơn kiện lại có thể ghi trên cùng một văn bản”;
- Đến hạn chót phải nộp Bản tự bảo vệ mà không có bất kỳ phản đối gì về thẩm quyền hoặc về vấn đề thủ tục thì Bị đơn sẽ được coi là từ bỏ quyền phản đối trước Hội đồng Trọng tài hoặc trước bất kỳ Tòa án nào. Trung tâm sẽ vẫn tiếp tục chỉ định Trọng tài viên cho Bị đơn và tiến hành thủ tục tố tụng kể cả khi Bị đơn không nộp Bản tự bảo vệ;
- Trong vòng 05 ngày kể từ ngày Trọng tài viên được Bị đơn chọn thì hai Trọng tài viên được chỉ định theo Điều 5 và 6 Quy tắc này sẽ cùng nhau bầu Trọng tài viên thứ ba làm Chủ tịch Hội đồng Trọng tài;
- Mỗi thành viên của Hội đồng Trọng tài phải độc lập với các bên và đáp ứng các tiêu chí khác nhau theo quy định pháp luật Việt Nam về Trọng tài Thương mại. Các bên có quyền yêu cầu Hội đồng Trọng tài thay thế bất kỳ Trọng tài viên nào nếu có bằng chứng nghi ngờ tính độc lập và chính trực của Trọng tài viên;
- Khi được thành lập, Hội đồng Trọng tài có quyền ban hành bất kỳ quyết định chưa giải quyết liên quan đến thẩm quyền, ngôn ngữ trọng tài hoặc Trọng tài, Luật Trọng tài, địa điểm trọng tài, hoặc các cuộc đàm phán sơ bộ trước khi thực hiện thủ tục tố tụng trọng tài;
- Các bên có quyền yêu cầu thu thập bằng chứng, yêu cầu tổ chức buổi họp sơ bộ để thu thập và làm rõ chứng cứ, hoặc yêu cầu áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời. Hội đồng Trọng tài sẽ xem xét các yêu cầu này và ban hành các lệnh có liên quan;
- Các bên được phép mời bất kỳ Bên thứ ba nào tham gia với tư cách là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến tranh chấp. Hội đồng Trọng tài sẽ xem xét quyết định có nên chấp nhận sự tham dự của Bên thứ ba hay không và sẽ đưa ra quyết định liên quan đến Bên tham gia này;
- Phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ được tổ chức bởi Hội đồng Trọng tài theo quy định tại Điều 4 của Quy tắc này. Bất kỳ yêu cầu hoãn Phiên họp giải quyết tranh chấp nào cũng phải được thông báo trước ít nhất là 07 ngày trước ngày diễn ra Phiên họp giải quyết tranh chấp, nếu không thông báo trước thì bên yêu cầu sẽ phải chịu trách nhiệm thanh toán chi phí tạm hoãn này. Nếu Nguyên đơn vắng mặt thì coi như Nguyên đơn rút Đơn khởi kiện. Nếu Bị đơn vắng mặt, Phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ vẫn tiến hành. Hội đồng Trọng tài có toàn quyền quyết định việc có nên tiếp tục Phiên họp giải quyết tranh chấp hay không tùy theo thiện chí của các bên;
- Phiên họp giải quyết tranh chấp sẽ là buổi để mỗi bên thực hiện quyền kiểm tra chéo bên kia và trình bày vụ việc cũng như đệ trình chứng cứ và lập luận của mình. Không bắt buộc về hình thức đệ trình chứng cứ, trừ khi Hội đồng Trọng tài cần phải thẩm tra lại chứng cứ. Khi Phiên họp giải quyết tranh chấp kết thúc, không bên nào được phép nộp thêm bất cứ tài liệu nào nữa;
- Phán quyết Trọng tài được ban hành trong vòng 15 ngày kể từ ngày kết thúc Phiên họp cuối cùng giải quyết tranh chấp theo nguyên tắc biểu quyết theo đa số của các thành viên Hội đồng Trọng tài, nếu số phiếu biểu quyết bằng nhau thì Chủ tịch sẽ là người quyết định. Các Trọng tài có ý kiến bất đồng sẽ đưa ra quan điểm của mình kèm với việc không tán thành. Đối với việc thanh toán phí trọng tài, Hội đồng Trọng tài sẽ đưa ra quyết định theo như yêu cầu được nêu ra trong Đơn khởi kiện hoặc Đơn yêu cầu phản tố và sẽ có giá trị thi hành như bất kỳ quyết định nào khác liên quan đến phí và chi phí pháp lý;
- Bằng việc chấp nhận tranh chấp sẽ được giải quyết bởi FCCA, mỗi bên theo đây chấp nhận rằng Phán quyết Trọng tài là chung thẩm và ràng buộc các bên, không bên nào được phản đối bất kỳ quyết định nào của Hội đồng Trọng tài, và trừ khi Phán quyết bị hủy do không tuân thủ những quy định pháp luật Việt Nam về Trọng tài Thương mại và với những bằng chứng hợp lý, Phán quyết sẽ được tự nguyện thi hành bởi các bên hoặc có thể bị cưỡng chế thi hành bởi cơ quan thi hành án có thẩm quyền hoặc thừa phát lại;
- Trường hợp các bên thỏa thuận đề nghị Trung tâm tổ chức hòa giải mà không thông qua Trọng tài, Trung tâm sẽ chỉ định một hòa giải viên độc lập để tiến hành hòa giải cho hai bên, trong vòng 15 ngày kể từ ngày chỉ định, Trung tâm sẽ ngay lập tức yêu cầu các bên tham gia hòa giải. Bất kỳ hòa giải thành nào cũng phải được lập thành Biên bản hòa giải thành để kết thúc tranh chấp và đăng ký tại Trung tâm nhằm thực thi theo Luật áp dụng
- Khuyến khích hòa giải suốt quá trình tố tụng trọng tài nhưng phải phù hợp với nguyên tắc cơ bản “không gây tổn hại”. Bất kỳ Phán quyết Trọng tài nào cũng không căn cứ vào quá trình hòa giải. Sau khi hòa giải thành, Hội đồng Trọng tài sẽ ban hành một Biên bản hòa giải thành có giá trị như một Phán quyết Trọng tài cuối cùng;
- Khi các bên đồng ý rằng tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một Trọng tài viên duy nhất thì Chủ tịch trung tâm trọng tài sẽ chỉ định một Trọng tài viên duy nhất và thủ tục Trọng tài do một Trọng tài viên duy nhất cũng tương đương thủ tục Trọng tài của Hội đồng Trọng tài có ba Trọng tài viên ngoại trừ các bên có thỏa thuận áp dụng thủ tục rút gọn.
- Trong trường hợp các bên có thỏa thuận áp dụng Thủ tục rút gọn, các quy định sau đây được áp dụng:
(a) Hội đồng Trọng tài gồm Trọng tài viên duy nhất;
(b) Trung tâm hoặc Hội đồng Trọng tài có thể rút ngắn bất kỳ thời hạn nào được quy định trong Quy tắc này;
(c) Hội đồng Trọng tài căn cứ vào tài liệu và chứng cứ hiện có để tiến hành phiên họp giải quyết tranh chấp mà không cần sự có mặt của các bên, trừ khi có sự phản đối của một bên. Hội đồng Trọng tài có thể tiến hành phiên họp giải quyết vụ tranh chấp bằng hình thức teleconference, video-conference hoặc các hình thức thích hợp khác, trừ khi có sự phản đối của một bên.
- Quy tắc này được điều chỉnh bởi Luật Việt Nam. Bất cứ vấn đề nào không được đề cập trong Quy tắc này và không được pháp luật về Trọng tài Thương mại quy định thì Hội đồng Trọng tài (được xem như là “Bên trung gian hòa giải”) áp dụng tập quán thích hợp để giải quyết vụ tranh chấp theo nguyên tắc công bằng và hợp lý vì lợi ích tốt nhất của các bên. Theo thỏa thuận của các bên, Hội đồng Trọng tài và Trung tâm có thể áp dụng Quy tắc trọng tài UNCITRAL, Quy tắc trọng tài ICC hoặc các quy tắc trọng tài khác được xác định về nội dung như là Quy tắc Trọng tài của các bên trong vụ tranh chấp thay cho Quy tắc này.